Giới thiệu về làng Giẽ Hạ, xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây.
Từ thủ đô Hà Nội theo con đường xuyên Việt (1A) về phía Nam đến cây số 40 (thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Tây) ta gặp một cây cầu vắt qua dòng Mang Giang (một nhánh của sông Nhuệ) đó là Cầu Giẽ. do nhân dân đặt tên từ xa xưa để ghi nhớ một sự kiện lịch sử năm 1789 khi một cánh quân của vua Quang Trung tiến quân ra Bắc do Đại đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy đã rẽ qua làng tiến về tây nam Thăng Long để tiêu diệt 20 Vạn quân Mãn Thanh.
Hiện nay, Hà Nội đi về phía Nam đến đầu cầu Giẽ phía bờ bắc, quẹo tay phải theo đường 75, đi mấy trăm mét đến làng Giẽ Hạ, chính là làng Thịnh Phúc (1) ngày xưa nơi Đặng Tiến Đông sinh ra trong dòng họ Đặng một thời vinh hiển có tới 18 quận cộng và nhiều vị tước hầu. Đô đốc Đặng Tiến Đông đã tự tay ghi vào phả tộc rằng: Ông đã sinh ra ở làng Thịnh Phúc vào giờ Sửu ngày 2 tháng 5 năm Mậu Ngọ (tức 18-6-1738).
Làng Giẽ Hạ có từ 400 năm trước Công Nguyên, lúc đầu chỉ có một số gia đình lập thành trang trại gọi là Phúc Trang (cuối thời Hùng Vương). Trải qua thời gian, sau đổi là làng Tĩnh Phúc, đến triều nhà Lê, Lê Quang Hưng thứ 15 (1586) đổi thành làng Thịnh Phúc, đến triều Nguyễn Gia Long (1802-1820) lại đổi là làng Thịnh Đức Hạ.
Sau Cách mạng tháng Tám, lây lại tên cũ là làng Giẽ Hạ, thuộc xã Phú Yên, huyện Phú Xuyên, Hà Tây, vì làng gắn liền với Cầu Giẽ, địa danh lịch sử một thời oanh liệt.
Làng Giẽ Hạ vốn là một làng quê cổ, được cụ Lang Canh (tức cụ Đỗ Thị Trần) người con gái dòng họ Đỗ Quang, lúc đương thời đã đặt vè ca ngợi cảnh đẹp của làng:
Cảnh làng Hạ
Đồn rằng Thịnh Hạ ta đây (2)
Có hồ bán nguyệt có cây bàng già
Bến hồ thì lát đá hoa
Hai bên giải vũ thật là xinh thay
Bóng râm cây tiếp liền cây
Lại có cái điếm ở ngay cổng đình
Đường làng lát đá thật xinh
Lát từ cổng đình cho xuống xóm Đông
Khen cho ba xóm có công (3)
Thu nhặt từng đồng lát đá cho sang
Làng ta đi lại đàng hoàng
Có thêm cái chợ cuối làng cũng vui (4)
Đằng trước có cái giếng thơi
Đằng sau có phủ (5) cạnh nơi có đình
Trông sang cái quán một mình
Nhìn vào quán ấy thực tình chín gian
Quán này gác chải (6) của làng
Từ đời ông Hộ lập sang quá này
Giai làng làm thợ giầy, may
Con gái ngày ngày giữ việc đăng ten (7)
Ai đi qua đấy đều khen
Nhìn cảnh làng Hạ, mà thèm đến chơi…
Làng Giẽ ngày nay đã thay đổi rất nhiều, nhưng những nét đẹp văn hoá của làng thì không ai đã từng sống ở đây có thể quên. Làng Giẽ Hạ có 20 dòng họ đã cùng nhau xây đắp nên cảnh quan của làng, trong đó có hai dòng họ Đặng và họ Đỗ Quang đông người và lâu đời ở đây đã góp phần tích cực mà dấu tích vẫn còn đến ngày nay.
Tại xóm Đông Giềng (8) vẫn uy nghi trầm mặc một ngôi từ đường cổ của họ Đỗ Quang, được xây cất từ đời Thiệu Trị năm thứ 5 (14/8/ất Tỵ, 1845), toạ lạc trên một khu đất rộng 1,4 sào Bắc bộ. Tính đến nay, ngôi từ đường có tuổi gần 200 năm, được xếp vào loại kiến trúc cổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi nhà thờ họ Đỗ Quang vẫn giữ được những nét nguyên sơ, với những hiện vật quý như: Cửa Võng, Khám thờ, hoành phi, câu đối và các đồ tế khí: Tàn lọng, trống chiêng, bát bửu v.v…
Hai bức đại tự trong nhà thờ:
– Đỗ thị từ đường
– Kim Ngọc trùng quang
Cùng các câu đối từ xa xưa còn lưu giữ được:
1)- Hệ xuất lương chi cao đạo công khắc khai quyết hậu,
– Quang lưu dực thế trung tương hữu duy vi tri tiên.
2) – Đức nghiệp gia chung thuỷ nhất,
– Thần minh tri trúc tử tôn an.
Lời văn ghi trên đây đã nói lên đức nghiệp và khát vọng lớn lao của tổ tiên dòng họ, và cũng là lời nhắn nhủ con cháu đời sau. ý tưởng đó thực tế được thể hiện từ thế kỷ 15, dòng họ đã có hai cụ đã được phong danh hiệu:
“Đặc tiến quả cảm tướng quân”
“Trung thành môn vệ uý”
Đó là tướng công Đỗ Quang Tân (tự là Quang Doãn và em là tướng công Đỗ Quang Thời (tự là công Trực).
Thế kỷ 18, có cụ Đỗ Quang Côn làm quan dưới triều vua Lê Hiển Tông được phong chức Trung uý, tước Phúc nghĩa Bá, vào bậc ngũ phẩm triều đình; Cụ Đỗ Quang Oánh phụ thân của cụ Đỗ Quang Côn, được nhà vua phong: “Yết trung tướng quân cẩm y vệ” chỉ huy sứ, chỉ huy sứ đồng tri, Vân kỵ uý và ban danh hiệu cho bà Nguyễn Thị Bằng (chính thất của cụ Đỗ Quang Côn) “Lệnh nhân”, hiệu “Y đức”, tên thuỵ là “Trang thân trung tự”. Hai sắc trên được khắc vào gỗ sơn then thiếp bạc còn được lưu giữ đến nay, qua 220 năm vẫn nguyên bản gốc.
Từ xa xưa, họ Đỗ Quang có một phong tục đặc biệt tốt đẹp “khao các nàng dâu” đầu năm, vào ngày 3 tết, dâu họ tề trực tại nhà thờ làm lễ tổ và chia phần lộc cho mỗi dâu họ. Vì các cụ quan niệm: Nàng dâu hiền là người sinh lan, sinh huệ, là người gánh vác cơ nghiệp, là người trực tiếp nuôi dạy nhiều thế hệ con em, làm nên vinh hiển cho dòng họ.
Trải qua 500 năm lịch sử với bao biến động, 20 thế hệ kế tiếp nhau từ một gốc 2 cành, ngày nay dòng họ có trên 100 hộ với 350 nhân khẩu (chưa kể những người làm ăn xa).
Từ khi khai cơ lập nghiệp đến nay, dòng họ Đỗ Quang cũng như nhân dân cả nước qua nhiều bước thăng trầm, nhiều phen binh lửa, giặc Giẽ. Nhưng trong hoàn cảnh nào dòng họ cũng đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia để cùng nhau vượt qua thử thách.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhiều con em trong họ thoát ly kháng chiến, người ở lại rào làng chiến đấu, sát cánh cùng bộ đội đánh thắng nhiều trận càn lớn của địch vào khu Cống Thần, Chợ Đại một thời từng được mệnh danh là Thủ đô kháng chiến (nhà văn Nam Cao lấy tư liệu vùng này để viết truyện ngắn “Đôi mắt”).Trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ dân quân làng Giẽ- trong đó hơn một phần ba là người họ Đỗ đã dùng súng bộ binh bắn hạ máy bay “Con ma” của không lực Hoa Kỳ. Địch đã trút xuống cầu Giẽ huyền thoại 11.460 trái bom, 99 tên lửa nhưng cầu vẫn hiên ngang đứng đó, được nhạc sỹ Nhật Lai ngợi ca bài hát “Hà Tây quê lụa“.
“Cô gái Suối Hai, chàng trai Cầu Giẽ”
Xã chúng tôi được phong tặng xã Anh hùng LLVT. Tượng đài chiến thắng Cầu Giẽ đang được triển khai xây dựng. Họ Đỗ Quang có một Bà mẹ Việt Nam anh hùng và bốn liệt sĩ hy sinh vì nước, nhiều vị được tặng Huân, Huy chương các loại.
Chiến tranh đã lùi xa, trên mặt trận kinh tế chúng tôi lại cùng nhau phấn đấu. Lớp cha, anh dời tay súng, tập hợp cháu con khôi phục lại ba nghề Tổ (nghề thợ may, nghề thợ giầy và nghề sơn mài). Làng, xã được coi là “Làng nghề da giày”. Sản xuất phát triển, mỗi năm thu về hàng tỉ đồng, gấp mấy lần lúa, lại không phải ly hương. Lớp trẻ ngày nay không chịu bằng lòng với các tổ hợp sản xuất nhỏ, mà đang tập trung nguồn lực thành lập công ty, mua ô tô, xây nhà xưởng. Làng chúng tôi được công nhận danh hiệu làng nghề, danh hiệu làng văn hoá trong đó có đóng góp không nhỏ của bà con họ Đỗ.
Giờ đã có “bát ăn, bát để”, việc học hành của con em dòng họ cố phấn đấu theo kịp và vượt tiền nhân. Tuy đã có quy định trong quy ước của họ, nhưng việc khuyến học của các cháu chưa được làm thường xuyên. Bà con dần dần có ý thức vai trò của khoa học kỹ thuật trong sản xuất hàng hoá, thời kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa. Được các bậc cao niên khuyến khích và nhiều người có tâm huyết chung tay góp sức, năm 2005 họ chúng tôi đã xây dựng và thông qua bản quy ước về khuyến học, khuyến tài gồm 8 điều. Thành lập một ban chuyên trách và một quỹ riêng lo việc học của con em trong họ. Quĩ khuyến học vừa ra đời được bà con trong họ hưởng ứng nhiệt tình. Cụ Lưu Thị Sế năm nay đã 85 tuổi, là dâu họ Đỗ, cũng là người đi đầu ủng hộ cho quỹ 100 ngàn đồng. Noi gương cụ, kẻ ít vài chục, người nhiều dăm trăm, ngay đợt đầu quĩ đã có ngót năm triệu đồng. Buổi ra mắt Ban khuyến học của họ được vinh dự đón tiếp đại diện của Đảng uỷ, UBND xã và các họ bạn đến chúc mừng.
Hiện nay, 100% con em dòng họ đang tuổi đi học đều được cắp sách đến trường, trong đó 46% được khen thưởng, có 23 người đã và đang học đại học. Trong họ, không còn hộ nghèo. Nhiều nhà xây dựng kiên cố 2-3 tầng. Hầu hết các gia đình đều dùng nước sạch, điện sản xuất và sinh hoạt 24 giờ/ ngày.
Phong cảnh quê hương chúng tôi ngày một đổi mới. Ai có dịp qua làng Giẽ Hạ ngày nay không khỏi ngạc nhiên về tốc độ đô thị hoá và nông thôn sản xuất công nghiệp hoá, làng nghề da giày. Nhiều người đã gọi làng Giẽ Hạ ngày nay là “Phố làng” với diện mạo khác xa làng Giẽ cổ 50 năm trước.
Năm 2006, làng Giẽ Hạ, dòng họ Đỗ Quang mong được đón tiếp hội nghị toàn thể BLL họ Đỗ Việt Nam với tình cảm thân thiết được dịp gặp đại diện bà con họ Đỗ khắp nơi đến giao lưu, chia sẻ tình cảm mà chúng tôi hằng ấp ủ.
Đỗ Quang Ánh và Đỗ Quang Hoà
Ghi chú:
(1): Tên làng Giẽ Hạ ngày xưa
(2): Tên làng Giẽ Hạ thời Nguyễn
(3): Xóm Đông, xóm giữa, xóm Đình
(4): Chỗ Giẽ
(5): Phủ từ của dòng họ Đặng
(6): Chải là thuyền lớn để bơi trong lễ hội
(7): Đăng ten là móc chỉ thành đồ dùng như: găng tay, khăn phủ bàn, khăn quàng cổ, v.v…
(8): Xóm đông làng Thượng giáp làng hạ
|