ĐỖ BÁ CÔNG ĐẠO NGƯỜI VẼ BẢN ĐỒ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM

Đỗ Bá Công Đạo, còn có tên là Đỗ Công Luận, người làng Bích Triều, xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nay thuộc chi họ Đậu Cẩm Nang ở xã Thanh Mai, Thanh Chương, Nghệ An.
Ông là người phóng khoáng, thích giao du. Là giám sinh nhưng ông không học theo khuôn khổ của trường Giám, mà tìm thầy giỏi học tư và tự học, rồi đi thi hội lọt được 02 trường. Tuy chưa đỗ tiến sĩ, nhưng người đời vẫn khen ông là người hay chữ. Ngoài ra Đỗ Công Đạo còn tinh thông môn địa lý phong thuỷ, truyền dạy được nhiều học trò giỏi. Sách Tang thương Ngẫu lục của Phạm Đình Hổ có chép truyện giám sinh Đậu Công Bàn, hậu duệ của ông rất giỏi địa lý phong thuỷ, đã điểm huyệt phát tướng cho gia tộc Bằng Quận Công Nguyễn Hữu Chỉnh. Gia phả họ Đậu ở Cẩm Nang ghi: “Đậu Công Luận thi trúng giám sinh vào năm đầu niên hiệu Dương Đức, đời Lê Gia Tông (1672), sau được bổ làm tri huyện Thạch Hà, được phong tước Đoan triều Nam… phần chép các kỳ tích của tổ tiên có chép rõ hơn ” Họ ta xưa có Đỗ Bá, tự Công Luận hoặc Công Đạo, tuổi trẻ đã đậu Hương giải, triều đình gia ơn cho làm giám sinh, nhưng ông không lấy làm mừng. Ông lại là ấm Tử, được bổ làm Tri huyện, huyện Thạch Hà, ông cũng không muốn làm quan. Ông thường than rằng: Nước ta liền cõi Chiêm Thành, trước kia hàng năm bị xâm lấn, có lần giặc đã vào chợ Phuống, giết người cướp của, thậm khổ”.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, dân tộc Việt đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược của phong kiến phương bắc và quấy phá của giặc Chiêm Thành từ phương nam, Kinh thành Thăng Long đã nhiều lần bị giặc Chiêm đốt phá, cướp bóc. Chủ quyền của Quốc gia là thiêng liêng. Vua Lê Thánh Tông đã từng nói một câu rất nổi tiếng về chủ quyền quốc gia: “Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu kẻ nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng”
Là người yêu nước, Đỗ Bá Công Đạo không cam tâm nhìn giặc nước hoành hành, ông mong muốn tìm ra phương sách giữ gìn và phát triển đất nước. Thực hiện mục đích của mình, vào khoảng thời Chính Hoà (1680-1705), ông từ quan. Sau khi bỏ quan phục, ông mặc quần áo dân thường, giả dạng làm người khách buôn sông Lam, vượt biển Thuận Quảng (nay là giải đất từ Quảng Bình đến Phú Yên), qua các nước Chiêm Thành, Chân Lạp xem xét hình thế núi sông, đường biển xa gần. Trải qua bao gian nan, nguy hiểm rình rập tính mạng khi thám sát vùng đất lạ , nhưng ông không nhụt chí, sờn lòng. Sau nhiều cuộc hải hành suốt một dải miền trung vaò miền nam ông đã bí mật khảo sát và vẽ thành bản đồ các xứ từ Thuận Quảng trở vào. Công trình hoàn thành ông lại mang lên Kinh thành vào ra mắt Chúa Trịnh, hiến kế nam chinh để trừ hoạ cho đất nước. Chúa Trịnh Căn rất mừng, mang bản đồ cất đi, lại trưng dụng ông soạn vẽ cho “Tứ chí Lộ đồ.”
Tập “Tứ chí Lộ đồ” do ông vẽ và biên tập, theo chúng tôi tổng kết có: 53 phủ, 181 huyện, 49 châu, 14 làng, 8.992 xã, 205 thôn, 335 trang, 451 sách, 43 sở, 442 động, 41 trại. 67 phường, 10 vạn, 8 nhà, 2 tuần, 1 quan, 2 giác, 15 nguyên, 15 châu. Riêng Thuận- Hoá có 02 phủ, 8 huyện, 4 châu, Quảng- Nam có 3 phủ 9 huyện.
Hiện nay trong kho sách Hán- Nôm còn bốn tập bản đồ ghi tên Đỗ Bá Công Đạo. Thường trên bốn chữ Tứ Trí Lộ Đồ có thêm hai chữ An Nam hoặc Toản tập. Một trong bốn quyển đó là quyển ” Đường từ phủ Phụng Thiên đến Chiêm Thành” có phần vẽ và chú giải bằng chữ Nôm về hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa ngày nay như sau: ở khu vực Phủ Thăng Hoa và Phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển hình bãi cát kéo dài từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Kỳ với tên gọi Bãi Cát Vàng, lại ghi rõ : “… hai núi, mỗi núi đều có mỏ vàng, có cơ quan tuần sát. Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi- cát -vàng. Dài độ 400 dăm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm đến biển Sa Vinh, mỗi lần có gió tây nam, thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy; gió đông bắc thì thương thuyền chạy ở ngoài cũng trôi giạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hoá thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hoá, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm vượt biển đến đấy thì phải một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ đến đấy thì phải nửa ngày. Chỗ bãi cát dài ấy cũng có đồi mồi. Ngoài cửa biển Sa Kỳ có một hòn núi, trên núi sản xuất phần nhiều là cây dầu, gọi là Trường dầu, có đặt quan tuần sát….. Nho sinh trúng thức họ Đỗ Bá, tự Đạo-phụ phủ ở Bích -triều (Thanh Giang) biên soạn.”
“Tứ chí Lộ đồ” là một tài liệu chính thức của quốc gia. ” Bãi Cát vàng” được ông thể hiện trong bộ Lộ đồ phản ánh cương giới xứ Đàng trong do chúa Nguyễn quản lý từ cuối thế kỷ XVI, đã mở rộng ra vùng quần đảo ở Biển Đông. “Bãi Cát vàng” là tên gọi nôm na mà nhân dân xứ Đàng Trong đặt cho 02 quần đảo san hô, rồi chuyển sang âm Hán Việt là “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chữ”. Tên gọi “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chữ ” được thông dụng trong các văn kiện thời Lê và thời Nguyễn, như trong Đại Nam Thực lục, Đại nam nhất thống chí, Đại nam nhất thống toàn đồ, chỉ chung cả hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa ngày nay. Đây là một tập tài liệu quí giá chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Bài viết của Hoàng Lam – Trần Tử Quang. Trên Báo Dân trí
TRƯỜNG SA CÁCH ĐÂY 5 THẾ KỶ.
Theo bản đồ “Tứ chí lộ đồ” do Đỗ Bá Công Đạo vẽ thì quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa được chú thích là “Bãi cát vàng”, thể hiện cương giới Đàng Trong do Chúa Nguyễn quản lý từ cuối thế kỷ XVI đã mở rộng ra vùng quần đảo ở Biển Đông.
Chúng tôi tìm về xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, Nghệ An trong một ngày mưa rả rích. Ngôi nhà thờ của họ Đậu chi Cẩm Nang vẫn im lìm, trầm mặc như vốn có. Đây là nơi thờ tự thủy tổ họ Đậu chi Cẩm Nang – Đậu Công Khâm – và thờ hậu duệ đời thứ 4 của ông là Đậu Công Luận, tên tự là Đậu Bá Công Đạo – người đã vẽ bản đồ quần đảo Trường Sa từ thế kỷ thứ XVII.
Tiếp chúng tôi, cụ Đậu Đình Trác (80 tuổi) – thuộc Hội đồng gia tộc họ Đậu chi Cẩm Nang (nay là xóm 2, xã Thanh Giang, Thanh Chương) – cho biết: “Trong gia phả của chúng tôi chỉ ghi cụ Đỗ Công Luận, tên tự là Công Đạo, còn gọi là Đậu Bá Công Đạo (không rõ năm sinh, năm mất) thi trúng giám sinh vào năm đầu niên hiệu Dương Đức đời Lê Gia Tông (1672), sau được bổ làm Tri huyện Thạch Hà, được phong tước Đoan Triều nam. Làm quan được 1 năm thì từ quan, cải dạng đi buôn để vào Nam. Cũng không thấy ghi gì đến công trạng của cụ. Chỉ đến khi đoàn nghiên cứu của PGS.TS Trần Bá Chí về đây ăn ở cả tháng trời sau đó công bố kết quả nghiên cứu thì dòng họ Đậu chi Cẩm Nang chúng tôi mới biết được cụ Đậu Công Luận là người có công vẽ nên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào thế kỷ thứ 17, xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này”.
Mặc dù công trạng của Đậu Bá Công Đạo đối với việc xác lập chủ quyền nước ta đối với 2 quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa là rất lớn nhưng gia phả dòng họ Đậu không ghi lại một dòng chữ nào về công trạng của ông. “Có thể là vào thời điểm đó, việc vẽ bản đồ có lý do rất đặc biệt, nếu để lộ sẽ bị tru di cửu tộc nên không được phép ghi vào gia phả dòng họ”, ông Trác lý giải.
Theo tài liệu sử sách và kết quả nghiên cứu của các học giả, Đậu Công Luận sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh quyết liệt. Chúa Trịnh Tạc, Trịnh Căn đã đánh đuổi được quân Nguyễn lùi vào Nam.
Với tham vọng mang đại quân vào Nam lật đổ chính quyền họ Nguyễn, thu phục đất đai biển đảo phía Nam, bởi vậy Chúa Trịnh rất cần bản đồ địa lý Đàng Trong. Năm Chính Hòa thứ 3 (1682), nhà sư Hương Hải trốn thoát từ miền Nam ra Thăng Long đã dâng Chúa Trịnh một tấm bản đồ vẽ vùng Thuận Quảng theo trí nhớ, bởi vậy xét về mọi phương diện thì tấm bản đồ này chưa khả dụng cho Chúa Trịnh đưa quân vào Đàng Trong mưu việc lớn.(*)
Khoảng thời Chính Hoà (năm 1680-1705), Đậu Công Luận giả dạng người đi buôn theo thuyền buôn ra biển, hướng vào Nam ấp ủ dự định vẽ tấm bản đồ cụ thể hơn về đất đai Đàng Trong. Sau nhiều cuộc hải hành suốt một dải từ miền Trung vào miền Nam, ông đã bí mật khảo sát và vẽ thành bản đồ các xứ từ Thuận Quảng trở vào mang tên “Tứ chí lộ đồ” – Bản đồ vẽ đường đi 4 phía. Sau khi hoàn thành, Đậu Công Luận dâng lên Chúa Trịnh hiến kế Nam chinh.
Tấm bản đồ do Đậu Bá Công Đạo vẽ từ thế kỷ XVII với dòng chữ “Bãi Cát vàng” – biểu thị quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa do Chúa Nguyễn quản lý (Ảnh tư liệu)
Tập “Tứ chí lộ đồ” do Đậu Công Luận vẽ có: 53 phủ, 181 huyện, 49 châu, 14 làng, 8.992 xã, 205 thôn, 335 trang, 451 sách, 43 sở, 442 động, 41 trại. 67 phường, 10 vạn, 8 nhà, 2 tuần, 1 quan, 2 giác, 15 nguyên, 15 châu. Riêng Thuận- Hoá có 02 phủ, 8 huyện, 4 châu, Quảng – Nam có 3 phủ 9 huyện. Trong tập bản đồ này có rất nhiều thông tin về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đặc biệt là bản đồ quần đảo Hoàng Sa.
Trong “Tứ chí lộ đồ” có quyển “Đường từ phủ Phụng Thiên đến Chiêm Thành” có phần vẽ và chú giải bằng chữ Nôm về hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa như sau: “Ở khu vực Phủ Thăng Hoa và Phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển hình bãi cát kéo dài từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Kỳ với tên gọi Bãi Cát Vàng”. Bãi Cát vàng được ông thể hiện trong bộ Lộ đồ phản ánh cương giới xứ Đàng Trong do chúa Nguyễn quản lý từ cuối thế kỷ XVI, đã mở rộng ra vùng quần đảo ở Biển Đông..
Bãi Cát vàng là tên gọi nôm na mà nhân dân xứ Đàng Trong đặt cho 2 quần đảo san hô, chuyển sang âm Hán Việt là “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử”. Tên gọi “Hoàng Sa”, “Hoàng Sa chử ” (chử trong tiếng Hán có nghĩa bãi – PV) được thông dụng trong các văn kiện thời Lê và thời Nguyễn, như trong Đại Nam Thực lục, Đại nam nhất thống chí, Đại nam nhất thống toàn đồ, chỉ chung cả hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa ngày nay. Đây là một tập tài liệu quí giá chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Theo chúng tôi được biết, hiện “Tứ chí lộ đồ” đang được lưu giữ tại Viện Hán Nôm – là một trong những chứng cứ quan trọng khẳng định chủ quyền Việt Nam trên biển Đông, đặc biệt là 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Hiện tại, dòng họ Đậu chi Cẩm Nang có trên 200 hộ, tập trung tại 4 xã Thanh Mai, Thanh Giang, Thanh Tùng, Thanh Xuân. Con cháu của dòng họ cần cù hiếu học, hay lam hay làm. Dòng họ hiện có 7 người trình độ trên đại học, có người đỗ đạt giữ chức vụ quan trọng trong quân đội, “còn đại học nhiều không đếm xuể”.
Hoàng Lam – Trần Tử Quang
Bài viết của Lê Hồng Khánh Trên báo Văn Hóa